BÁT QUAN TRAI-GIỚI

Thích Tuệ Sỹ

(tiếp theo và hết) 

 

NỘI DUNG TÁM GIỚI

 Bát quan trai giới, là trai giới có 8 chi. Nội dung các chi, theo ư nghĩa, chia làm 4 phần.   

1. Giới tự tánh, gồm có 4 chi: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ. Nói là tự tánh, v́ đó là phẩm chất cơ bản nhất của con người. Mất đi những phẩm chất này th́ cũng mất luôn giá trị làm người, mà đọa lạc xuống thành hàng súc sinh, động vật thấp. Phật xuất hiện hay không xuất hiện ở đời, 4 phẩm chất này là cần thiết để được tái sinh làm người. Tuy nhiên, khi có Phật ra đời, quy định thành điều học; và Phật tử phát nguyện thọ tŕ, bấy giờ tự thân giới phát triển thành năng lực vừa pḥng hộ, vừa nâng cao tâm của người thọ tŕ hướng về Thánh đạo.

Bốn chi này là căn bản của ngũ giới. Có sự khác biệt trong 8 giới là không được dâm dục, trong khi năm giới chỉ tránh sự tà dâm. Do hiệu lực của năm giới là thọ suốt đời, mà trong 8 giới chỉ thọ một ngày một đêm, nên thể của các giới này cũng có sự khác nhau. Như giới sát sanh. Trong năm giới, nó có giá trị pḥng hộ để không bị báo ứng đau khổ về sau, là phước báo trong loài người mà thôi. Trong 8 giới, nó không những tăng cường năng lực pḥng hộ, mà c̣n phát triển thành nhân tố tích cực, trở thành năng lực đối trị phiền năo, chế ngự và diệt trừ tâm sân hận, từ đó dễ dàng chứng đắc các thiền, cao hơn nữa là các Thánh quả. 

2. Một chi trừ phóng dật, là chi giới cấm uống rượu, dùng các chất say; những thứ khiến cho tâm trở thành buông lung, không được kiểm soát. Trong năm giới, chi tránh uống rượu chỉ là sự pḥng hộ không để say sưa, mất tự chủ, rồi dẫn đến phạm các giới khác. Trong 8 giới, chi tránh xa uống rượu này trở thành năng lực ngăn trừ sự phóng dật, hay buông lung.

Phật dạy: có một pháp dẫn tới Niết bàn và có một pháp khiến các người làm nô lệ cho ma quỷ tức ma vương, tử thần. Một pháp, nếu ai thành tựu, có đầy đủ, ai có nó nằm ngay trong ḷng ḿnh, người có pháp đó sẽ không bao giờ thoát khỏi bàn tay của ma vương, của tử thần. Đó là phóng dật, buông lung.

C̣n một pháp thoát khỏi sự khống chế của ma vương đi tới cứu cánh an lạc, đó là không buông lung

Buông lung là sự buông thả, hay xao lăng, làm càn, làm dở, không tự kiểm soát ḿnh, là không tỉnh giác. Như học tṛ muốn thi đậu. Ngày mai thi, bài học chưa thuộc, nhưng  lại buông lung theo các các trận bóng đá, mà hậu quả là sự thi trượt. Đó là trạng thái buông lung không kiềm chế được. Người có buông lung th́ không làm ǵ nên nổi sự nghiệp lớn; luôn luôn thất bại.

Buông lung gồm có buông lung thân, buông lung tâm. Buông lung thân là thế nào? Mệt một chút th́ đi nằm, ngồi học một chút buồn ngủ quá th́ đi ngủ. Người tu ngồi lần chuỗi mới được nửa chuỗi th́ nghĩ tưởng đủ thứ chuyện. Buông lung tâm là xao lăng, mất chánh niệm, suy nghĩ viễn vông, không tập trung tâm ư vào điều thiện, nên cũng dễ được dẫn đến chỗ làm càn, làm bậy.  

3. Hai chi ngăn trừ kiêu mạn. Một, tránh không ngồi nằm trên các thứ giường ṭa cao rộng. Hai, tránh trang sức các thứ tràng hoa, anh lạc, thoa ướp hương thơm; cũng tránh không ca múa, hát xướng, cố ư xem nghe. Trong giới sa-di, hai chi này được phân thành ba, v́ mục đích học tập chánh niệm.

Ở đời, giai cấp và địa vị xă hội là những tiêu chuẩn để phẩm định giá trị một người. Ông hoàng đế khi vi hành, chỉ mang theo vài ba lính hầu, phục sức như dân dă; chẳng ai sợ, cũng chẳng được ai tôn kính. Thuở xưa, vua Ba-tư-nặc mỗi khi ra khỏi hoàng cung đều có tiền hô hậu ủng, gươm, giáo, tàn lọng; nhưng khi đến tinh xá hầu Phật; ông bỏ hết tất cả nghị trượng vua chúa quyền uy ấy, chỉ một ḿnh đi bộ đến giảng đường, cúi lạy Phật. Không thể bước vào Thánh đạo với tâm kiêu mạn, với cảm tưởng quyền uy, giàu sang nào cả. Phật nói, như bốn con sông lớn khi chảy vào biển cả, chỉ c̣n một vị mặn duy nhất; cũng vậy, đời có phân biệt bốn giai cấp sang hèn khác nhau, nhưng khi bước vào Thánh đạo, tất cả ḥa thành một hương vị duy nhất, là hương vị giải thoát.   

4. Một chi là thể của bát quan trai. Đó là chi không ăn phi thời, làm nền tảng cho tất cả 8 điều.  Do chi không ăn phi thời này mà bản chất giới sát sinh, v.v., trong 5 giới khác với thể của các chi trong 8 giới.

Chúng ta biết rằng, trong phong tục Trung hoa, khi một ông Vua muốn làm lễ tế thiên địa, th́ trước đó phải dọn ḿnh cho sạch sẽ bằng cách trai giới một tuần tức 10 ngày. Trai giới ở đây là kiêng cữ rượu thịt và sắc dục.

Trong tục lệ tôn giáo Vệ-đà của Ấn độ, người gia chủ muốn làm dâng lễ Soma cho thần linh, trước hôm hành lễ cũng phải trai giới, tức không ăn chiều.

Những tục lệ như vậy thuộc về tín ngưỡng, nặng tính cầu nguyện, không ảnh hưởng ǵ đến việc tu tập của Phật tử. Nhưng, những ngày mà họ chọn để hành lễ th́ quả thật có ư nghĩa.

Thật ra, trong xă hội nông nghiệp cổ xưa, các hiền triết hay đạo sĩ sống trong rừng, do quan sát tâm tư ḿnh hay do tiếp xúc với dân chúng, họ nhận thấy, tâm tư con người vào những ngày này rất dễ bị tác động; hoặc dễ cáu kỉnh hơn ngày khác, hoặc dễ cảm thấy hoan hỷ hơn. Nhưng v́ không thể lư giải bằng ngôn ngữ của lư trí, nên họ biểu hiện ư nghĩa đó qua tín ngưỡng thần linh, rằng t́nh trạng thay đổi tâm tính bất thường như vậy là do ma quỷ quấy nhiễu, hay do thần linh pḥ trợ.

Với Phật tử đă thọ Tam quy Ngũ giới th́ không có ngày nào là không tránh xa sự sát sinh, trộm cắp, nói dối, v.v.. Nhưng sự tránh xa này chỉ là trạng thái tiêu cực. Rồi khi thọ tŕ trai giới, tránh không ăn phi thời, th́ sự không ăn phi thời này chính là lực tác động khiến cho năng lực pḥng hộ của giới được tăng trưởng. V́ vậy, giới này cũng được gọi là giới Trưởng tịnh. V́ sao? Ư nghĩa cũng đơn giản thôi. Người đời, sự ăn và sự uống là một phần của sự sống cho nên không cảm thấy có ǵ khác lạ trong sự ăn uống hằng ngày. Nay thọ tŕ trai giới, ư thức rằng từ trưa nay cho đến sáng mai, ḿnh không ăn và chỉ uống những thứ được quy định là như pháp; do đó mà trong tâm thường trực hiện hành một năng lực pḥng hộ, tránh không ăn phi thời. Năng lực này làm nền tảng, cũng là làm chất xúc tác, để cho năng lực pḥng hộ của các giới khác tự nhiên luân lưu và tăng trưởng. Do đó, nếu người thọ tŕ giới bát quan trai mà ăn phi thời, th́ thể của trai giới tự động hủy.

Mặt khác, với người đời, bữa ăn chiều tối là chính. Trong đó, không chỉ ăn uống, tiệc tùng, hưởng thụ các thứ vật dục, các lạc thú trần gian; mà đó c̣n là các mối quan hệ xă hội, là cơ hội giao tiếp, bàn bạc các công việc làm ăn, thiện có ác có. Nói cách khác, đó là thời gian thắt chặt các sợi giây ràng buộc của xă hội. Một ngày tránh ăn phi thời, là tạm thời tránh xa những quan hệ ràng buộc xă hội như vậy. Chính do sự tránh xa này mà người tại gia cảm nghiệm được ư nghĩa viễn ly, rơ được giá trị của sự giải thoát khỏi những buộc ràng thế tục. Đó chính là khởi đầu của Thánh đạo. Cho nên, giới này cũng được gọi là giới cận trụ; là giới mà năng lực pḥng hộ dẫn người thọ tŕ đi gần đến Thánh đạo.

Với ư nghĩa như vậy, sự thọ tŕ bát quan trai giới chính là thọ tŕ sự không ăn phi thời. Những nghi thức khác, như cúng dường ngọ trai, hay tụng kinh, bái sám, chỉ là các h́nh thức hỗ trợ cho giới thể được vững mạnh. Đó không phải là những điều cốt yếu trong sự thọ tŕ bát quan trai giới.

Thời Phật, các cư sĩ như Ông Cấp Cô Độc, hay Bà Tỳ-xá-khư, là những nhà đại phú hộ; có cơ nghiệp gia sản to lớn. Họ vẫn thường xuyên thọ tŕ trai giới. Vào ngày thọ giới, họ đến chùa xin giới với một vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni, sau đó trở về nhà, quản lư công việc làm ăn buôn bán như thường. Nhưng do sự không ăn chiều, trong thân tâm họ giới thể tự nhiên luân lưu trọn một ngày đêm. 

Đa số người thọ giới v́ thói quen ăn chiều nên muốn được châm chước. Tức là xin được ăn cháo, hay các thứ bột ngũ cốc cho đỡ đói. Làm như vậy th́ sự thọ tŕ trai giới không c̣n ư nghĩa là tŕ giới, mà chỉ là việc làm lành để cầu phước thôi. Thật ra, nhịn đói một ngày, chẳng thiệt hại ǵ. Trái lại, nếu tập nhịn được, người thọ tŕ sẽ thấy ích lợi vô cùng của giới pháp này. Tất nhiên, chỉ những ai có hành mới có hiểu.

 

TĂNG TRƯỞNG THIỆN CĂN 

Trong các thiện căn, thứ nhất là tín tâm, thứ hai là tinh tấn. Tinh tấn chính là nghị lực, nó là gốc rễ của thiện căn, không có nghị lực, không phát triển thiện căn được.

Tinh tấn hiểu là siêng. Siêng th́ ai cũng siêng được, v́ người đời sống th́ cần phải làm việc chứ ngồi không dễ sinh chán, ngồi xem TV hoài, thích thú mấy rồi cũng có lúc mệt mỏi, chán chường. Siêng năng như vậy không phải là tinh tấn.

Người tinh tấn là người có nghị lực. Nhiều người cứ nghĩ nghị lực là làm việc ǵ lớn lao như bậc đại trượng phu. Dù làm việc lớn việc nhỏ ǵ cũng phải giữ vững quyết tâm, phải kiên tŕ; từ  chuyện nhỏ cho tới chuyện lớn, đă quyết định th́ không bỏ. Đó là nghị lực cần được huấn luyện. Ở đời, dễ mất nghị lực. Có nhiều người khi hứa th́ hăng hái, dũng mănh. Rồi sau đó th́ nguội dần, cho đến khi tắt hẳn. Tất nhiên mọi sự đều có lư do biện hộ; đều có cái lẽ tại v́, hay bởi v́. Chính các cớ sự được dẫn ra để biện hộ cho sự thoái thất của ḿnh ấy nuôi dưỡng sự buông lung trong ta một ngày một lớn.

Mất nghị lực, th́ tín tâm rồi cũng sẽ mất; các pháp thiện cũng bị xao lăng và dần dần đi đến chỗ đoạn tuyệt. Cho nên, có tín th́ phải có tấn, có đủ nghị lực mới có thể tập trung chú ư, tức có niệm. Có niệm, có tập trung chú ư, mới có nhận thức đúng, chân chính; tức có huệ.

Làm thế nào để phát triển các  thiện căn này, là tín, tấn, niệm, định, huệ?

Học tập thọ tŕ bát quan trai giới để gần gũi đời sống một vị A-la-hán, để có chánh tín nơi Thánh đạo, biết rơ có con đường thánh, có con đường ra khỏi thế gian cho ḿnh đi.

Tinh tấn là nghị lực. Niệm, tức chánh niệm, không xao lăng pháp thiện, không quên bỏ mục đích tối thượng của đời ḿnh.

Niệm thông thường để có niềm tin. Niệm là nhớ, suy nghĩ, từ suy nghĩ cho đến chánh niệm. Trong tu bát quan trai giới, người Phật tử thọ giới được khuyên dạy là nên tu tập pháp môn lục niệm tức đối tượng để chiêm nghiệm và suy niệm. Đó là : niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên. Đây cũng là một phần của việc tu định.

Niệm Phật, là niệm những phẩm tính của Phật. Phật là đáng Đại giác, đă diệt trừ phiền năo, đạo đức toàn vẹn, không c̣n tham sân si; Phật là đấng Ứng cúng, Chánh biến tri, là đấng Giác ngộ hoàn toàn… 10 hiệu của Phật.

Niệm Phật là nghĩ đến những đức đại từ, đại bi, đại trí, đại tuệ chứ không phải chỉ niệm mà không biết ǵ.

Niệm Pháp là niệm những lời dạy của đức Phật. Pháp của đức Thế Tôn khéo nói, khéo giảng dạy; pháp đó vốn thanh tịnh, ly dục, nếu ḿnh thực hành th́ có hiệu quả ngay, đem an lạc ngay trong hiện tại; pháp mà Phật giảng dạy là đến để mà thấy, để chứng nghiệm, chứ không phải đứng xa xa mà nghe. Nếu không đến, không thực hành, không chứng nghiệm th́ không thể hiểu được. Đó là tính chất Pháp của Phật giảng dạy.

Niệm Tăng. Tăng là chúng đệ tử của Phật, những vị đang đi trên con đường thánh đạo, đang thực tập, là phàm Tăng hoặc là thánh Tăng đang hướng đến Niết bàn hay chứng đạo quả Niết bàn, có thật những vị Tăng trong thế gian. Niệm Phật, Pháp, Tăng để có chánh tín rằng có Thánh đạo ngay trong cơi đời này.

Niệm Thí là suy niệm về sự thực hành bố thí có hiệu quả. Ở thế gian thực tập hạnh thí xả; xả bỏ tiền tài, danh vọng, không tham lam chấp trước tài sản.

Niệm Giới là suy niệm làm thế nào giới không bị khuyết, không bị vỡ, không bị sứt mẻ, không bị hoen ố, không bị t́ vết như viên ngọc, phẩm chất trong sáng.

Niệm Thiên là suy niệm rằng ngoài cơi người này c̣n có cơi trời, thế giới của thiên thần, xa hơn nữa có thế giới của Bồ Tát, của Phật, ít nhất là trên cơi người c̣n có những thế giới cao hơn con người.

Nếu vun trồng được thiện căn, cơ bản là thành tựu được bát quan trai giới, nó sẽ phát sinh ra hiệu quả ḿnh sẽ thấy, ḿnh cảm nhận được Phật Pháp vi diệu, đưa ḿnh lên đời sống cao hơn, càng thấy phẩm giá ḿnh càng lúc càng lên cao. 

Phật pháp không ĺa khỏi thế gian. Điều đó có nghĩa Phật pháp chính là sự sống. Hiểu Phật pháp là hiểu lẽ sống của ḿnh. Sống phải biết mục đích sống, tại sao ḿnh sống, tại sao ḿnh chết. Sống cả cuộc đời, làm ăn vất vả lam lũ, may mắn th́ làm vua làm chúa, cuối cùng chả biết đi về đâu; thế th́ uổng lắm.

Cầu mong các Phật tử sau một ngày thọ tŕ trai giới, thấy ḿnh được gần Thánh đạo hơn một bước.

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 12/03/09